Cấu trúc đàn piano ngày nay
Cây đàn piano hiện đại có 6 bộ phận chính (những bộ phận của piano được đánh số trong biểu đồ 1)
1.
Khung đàn (Frame): thường được làm bằng sắt, ở rìa sau gắn thanh chốt
dây để cài chặt một đầu dây đàn. Ở rìa trước là tấm khóa lên dây, gồm
nhiều chốt lên dây. Đầu dây đàn còn lại được quấn quanh chốt lên dây. Độ
căng của dây (cao độ của nốt) được cân chỉnh bằng cách vặn các chốt lên
dây này.
2.
Bảng cộng hưởng (Soundboard): làm bằng gỗ vân sam mỏng và cứng, đặt ở
dưới lớp dây đàn, có tác dụng tăng âm bằng rung động cộng hưởng.
3.
Dây đàn (String): được làm từ dây thép, có độ dài và độ dày tăng dần
lên theo cao độ giảm dần. 2 hoặc 3 dây đàn có độ cao như nhau được sử
dụng cho mỗi nốt âm cao. Những nốt có âm thấp hơn chỉ dùng một dây độc
lập, có kích thước lớn và được làm nặng hơn bằng cách cuộn những sợi dây
đồng mỏng xung quanh dây.
4.
Bộ cơ (Action): bao gồm tất cả các bộ phận khiến đầu búa chuyển động,
chạm tới dây đàn. Bộ phận có thể nhìn thấy rõ nhất chính là bàn phím,
được điều khiển trực tiếp bằng ngón tay người chơi. Các phím đàn trắng
được làm bằng nhựa hoặc ngà voi, các phím đen được làm bằng nhựa hoặc gỗ
mun.
5.
Bộ pedals (bàn đạp): là các cần điều khiển bằng chân. Pedal vang
âm (phía bên phải - damper pedal) giữ "bàn phím chặn âm" tách khỏi dây
đàn, cho phép dây đàn rung một thời gian dài - tạo ra âm thanh ngân vang
ngay cả khi tay đã buông khỏi phím đàn. Pedal giảm âm (phía bên trái -
còn gọi là una corda) làm giảm một nửa khoảng cách giữa đầu búa và dây
đàn, hoặc là chuyển vị trí của đầu búa một chút sang bên cạnh, khiến đầu
búa chỉ chạm vào một dây đàn thay vì 2 hay 3 dây như bình thường, làm
giảm cường độ âm thanh. Có những cây đàn piano có thêm pedal thứ
3, pedal duy trì (sustaining pedal). Pedal này không giữ toàn bộ bàn
phím chặn âm. Khi phím đàn được nhấn xuống, phím chặn âm tương ứng của
nốt đó sẽ được nâng lên, pedal duy trì sẽ chỉ giữ riêng biệt phím chặn
âm này và không ảnh hưởng tới các phím chặn âm khác.
Việc
sử dụng những chiếc pedal này có khả năng tạo ra những thay đổi âm
thanh tinh tế. Phần lớn những cây vertical piano thay Pedal duy
trì bằng pedal tập luyện (pratise pedal) có tác dụng đặt tấm nỉ vào giữa
đầu búa và dây, tạo ra âm thanh rất nhỏ.
6. Hộp
đàn (Case) tạo nên hình dáng đàn và là cơ sở để người ta phân loại đàn
piano thành grand piano (piano cánh), square piano (piano vuông) và
vertical piano (piano đứng). Loại piano vuông (chính xác là hình chữ
nhật) không còn được sản xuất nữa, nó được thay thế hoàn toàn bằng những
chiếc vertical piano chiếm ít diện tích hơn. Loại grand piano được chế
tạo với nhiều kích cỡ khác nhau, từ kiểu đàn concert dùng trong các buổi
hòa nhạc dài 2,69m (tương đương 8 ft 10 inch) cho tới còn những chiếc
baby grand chỉ dài 1,8m.
Kiểu
đàn vertical piano cũng bao gồm cả loại đàn vertical piano kích thước
nhỏ của những năm cuối thế kỉ thứ 19 giống như đàn spinet ngày nay (đàn
harpsichord loại nhỏ) và đàn piano hộp. Ở đàn piano đứng dây đàn chạy
dọc hoặc chéo từ trên xuống dưới. Ở đàn piano đứng và những đàn cơ nhỏ
đôi khi người ta xếp chồng dây đàn: dây đàn những nốt trầm được căng
chéo phía trên các dây ngắn của âm khu cao. Bằng cách này chúng có thể
tăng thêm độ dài và cải thiện chất lượng âm thanh. Tổng lực căng dây
trên một cây đàn cơ vào khoảng 30 tấn, còn của một cây đàn đứng khoảng
14 tấn.
Cơ chế hoạt động của đàn piano
Về
cơ bản, khi phím đàn được nhấn xuống phần cuối của đòn bẩy sẽ đẩy trục
đứng lên trên khiến đầu búa gõ vào dây đàn. Cùng lúc đó phím chặn âm
được nâng lên khỏi dây đàn để chúng rung tự do tạo ra âm thanh.
Sau đây là miêu tả chi tiết với các số thứ tự được đánh như trong biểu đồ 2:
Mỗi phím
đàn (1) là một đòn bẩy, có điểm tựa ở một trục thăng bằng (2). Khi
người chơi nhấn một phím đàn xuống, phần đuôi đòn bẩy được nâng lên
khiến trục đứng (3) đẩy khớp nối (4) một đầu được giữ chặt lên. Đầu tự
do của khớp nối kéo theo chi tiết hình chữ L được gọi là đòn bẩy thoát
(5) (escapement lever) và đòn bẩy lặp (9) (repetition lever).
Đòn
bẩy thoát đẩy con lăn (6), một cuộn nỉ được gắn chặn vào cán búa (7),
đẩy đầu búa lên cao. Đòn bẩy thoát dừng lại khi mà phần đuôi nhô ra của
nó chạm vào nút chỉnh (8). Đầu búa rời khỏi đòn bẩy thoát và gõ vào dây
đàn. Đòn bẩy lặp cũng được nâng lên, nhưng chỉ tới khi khi đòn bẩy
thoát vượt qua nó và chạm vào chiếc ốc rơi (10). Đòn bẩy lặp giữ nguyên
vị trí này cho đến lúc phím đàn được thả ra.
Sau
đó búa rơi một nửa đường về vị trí cũ. Nó bị chặn lại bởi con lăn và
chạm vào đòn bẩy lặp đang ở vị trí được nâng lên cao. Đòn bẩy thoát vì
vậy có thể trượt phía dưới cán búa vẫn đang được nâng lên một nửa để trở
về vị trí ban đầu của nó. Trong lúc đó, búa kiểm tra (11) ngăn đầu búa
gõ lại vào dây đàn.
Nếu
phím đàn được thả ra một phần, búa gõ thoát khỏi búa kiểm tra trong khi
đòn bẩy vẫn giữ nguyên ở trạng thái nâng lên. Nếu người chơi lại ấn
phím đàn này xuống, đòn bẩy thoát có thể một lần nữa đẩy con lăn và làm
cho đầu búa nâng lên, gõ vào dây đàn. (Hệ thống này cho phép sự lặp lại
liên tục của một nốt trước khi phím đàn và chiếc búa kịp quay trở về vị
trí ban đầu của chúng. Đây là một cải tiến quan trọng so với cơ cấu đơn
giản của thời kỳ đầu.)
Trong
lúc này, phần đuôi của phím đàn đẩy phím chặn tiếng (12) lên phía trên,
nâng nó lên khỏi dây đàn. Khi mà phím đàn đã được thả lỏng một phần
nào, phím chặn tiếng rơi ngược lại lên dây đàn làm tắt tiếng đàn.
Khi phím đàn được thả ra hoàn toàn, toàn bộ cơ cấu lại trở về vị trí đầu tiên nhờ trọng lực. Không giống với những chiếc grand piano, vertical piano không thể dựa vào trọng lực để buộc mọi thứ trở về vị trí ban đầu. Ở grand piano, các bộ phận đặt nằm ngang trên phím đàn, còn với vertical piano thì bộ cơ lại được xếp gần vuông góc. Vì không thể chỉ dựa vào trọng lực nên nó dùng thêm các loại dây và những băng vải nhỏ để kéo các phần của bộ cơ trở về vị trí cũ.
Khi phím đàn được thả ra hoàn toàn, toàn bộ cơ cấu lại trở về vị trí đầu tiên nhờ trọng lực. Không giống với những chiếc grand piano, vertical piano không thể dựa vào trọng lực để buộc mọi thứ trở về vị trí ban đầu. Ở grand piano, các bộ phận đặt nằm ngang trên phím đàn, còn với vertical piano thì bộ cơ lại được xếp gần vuông góc. Vì không thể chỉ dựa vào trọng lực nên nó dùng thêm các loại dây và những băng vải nhỏ để kéo các phần của bộ cơ trở về vị trí cũ.
Một số nghệ sĩ độc tấu nổi tiếng
Piano
vẫn luôn là nhạc cụ dành cho những nghệ sĩ bậc thầy. Vào thế kỷ XVIII
và XIX các nhà soạn nhạc vẫn thường chơi các tác phẩm của chính mình,
trong số đó có Wolfgang Amadeus Mozart, Ludwig van Beethoven, Frédéric
Chopin và cả nhà soạn nhạc người Hungary Franz Liszt... Nữ nghệ sĩ piano
nổi tiếng người Đức Clara Schumann thì chơi những tác phẩm của chồng
bà, nhạc sĩ Robert Schumann. Cuối thế kỉ XIX là thời kì độc tôn của nghệ
sĩ người Nga Anton Rubinstein, và đến đầu thế kỷ XX rất nhiều các nghệ
sĩ biểu diễn khác đã đi lưu diễn khắp Tây Âu và Mỹ. Trong số đó có thể
kể đến nghệ sĩ người Ba Lan Ignace Paderewski, nghệ sĩ người Mỹ gốc Ba
Lan Josef Hofmann và Arthur Rubinstein. Trong thời kì giữa Chiến tranh
Thế giới I và II (1918 – 1939), nhà soạn nhạc và nghệ sĩ biểu diễn người
Mĩ gốc Nga Sergei Rachmaninov, nghệ sĩ người Mỹ gốc Áo Artur Schnabel,
nghệ sĩ người Anh Dame Myra Hess, nghệ sĩ người Đức Walter Gieseking và
nghệ sĩ người Brasil Guiomar Novaes là những nghệ sĩ độc tấu piano được
biết đến nhiều nhất. Sau khi thế chiến thứ II kết thúc vào năm 1945, các
nghệ sĩ piano người Nga đã xuất hiện trở lại ở Mỹ, hai trong số họ
là Emil Gilels và Sviatoslav Richter. Trong số những nghệ sĩ độc tấu
piano nổi tiếng còn có nghệ sĩ người Chile Claudio Arrau, một bậc thầy
với mảng tác phẩm biểu diễn đặc biệt rộng; Rudolf Serkin, một giáo viên -
nghệ sĩ piano người Mỹ sinh ở Séc; nghệ sĩ thiên tài người Mỹ gốc
NgaVladimir Horowitz và nghệ sĩ người Tây Ban Nha Alicia de Larrocha.
Một số nghệ sĩ được đánh giá cao khác xuất hiện sau Chiến tranh thế giới
thứ II là nghệ sĩ người Anh gốc Áo Alfred Brendel, người bằng những
hiểu biết và tài năng của mình đã khơi dậy những cuộc tranh luận về nghệ
thuật vốn đã chìm lặng từ lâu; nghệ sĩ người Canada Glenn Gould, người
rất được tán thưởng bởi những thu âm các tác phẩm của Bach, hay các nghệ
sĩ người Mỹ Van Cliburn, André Watts, Murray Perahiavà nghệ sĩ người
Iceland gốc Nga Vladimir Ashkenazy. Ngày nay, với khả năng kỹ thuật của
các nghệ sĩ piano ngày càng tăng, con số về các cuộc thi piano mang tầm
cỡ quốc tế đã tăng lên một cách đáng kể, tạo nên một sự quan tâm đặc
biệt của mọi người và là bước đầu cho việc xây dựng sự nghiệp của những
nghệ sĩ mới đầy triển vọng.
Tìm hiểu về cấu tạo đàn piano
1) BỘ PHẬN GIỮ VÀ LÊN DÂY (Phần khung gang, chốt giữ dây)
*Khung
gang là một trong nhưng yếu tố mang lại tuổi thọ của đàn .Được chế tạo
khá công phu có tác dụng chịu lực kéo,giữ 2 đầu của dây đàn khi căng
lên, trường hợp khung gang có thể bị gãy ,sập là trong quá trình vận
chuyển, đàn bị đỏ sập xuống.
*Chốt
giữ dây(Tuning pin) thông thường được chế tác như một pulông có các ren
rất nhỏ ,chiều dài đoạn ren này thường từ 20~25 mm được vặn sâu vào bên
trong xuyên qua phần khung gang đến phần thanh trụ giữ chốt và được giữ
bởi một chiếc bạc giữ
2) BỘ PHẬN PHÁT ÂM (Dây đàn, con ngựa, thùng cộng hưởng)
*Dây
đàn (String) là một kim loại hội tụ yếu tố dẻo dai,ít cacbon nhất,dây
có đường kính khác nhau.Ở trong đàn piano sử dụng các loại dây có kích
cỡ như sau:
LOẠI DÂY
|
ĐƯỜNG KÍNH/mm
|
VỊ TRÍ
|
13
|
0.775
|
Cao
|
15
|
0.900
|
Trung cao
|
17
|
1.000
|
Trung
|
19
|
1.100
|
Trầm
|
Thường thì dây đàn piano có
thể chịu lực kéo trung bình khoảng 70kg vậy nếu căng toàn bộ số dây
trong một đàn là trên 220 dây thì lực kéo có thể lên tới 15tấn trở lên.
*
Con ngựa (Bridge) được chế tạo và cắt gọt từ một loại gỗ có độ cứng cao
(lõi gỗ già) phải đảm bảo không co ngót ,cong vênh trong khi sử dụng
,con ngựa gắn kết với thùng cộng hưởng bằng một loại keo gỗ (Dino) được
liên kết thành một khối dính chắc có nhiệm vụ truyền tải dung động từ
dây đến thùng cộng hưởng
*
Thùng cộng hưởng(Soundboard) Như là một thùng loa của đàn. Sau khi gõ
vào dây, dây đàn rung lên,tạo ra âm thanh và được truyền tải qua con
ngựa sau đó đén thùng cộng hưởng của đàn và và một số phần thành của
đàn.Thùng cộng hưởng được tạo nên bởi những mảnh ván gỗ có khổ
rộng,chiều dài và độ dầy khác nhau:
ĐỘ DẦY PHẦN TRẦM/mm
|
ĐỘ DẦY PHẦN CAO/mm
|
6~7mm
|
9~10 mm
|
3) BỘ GÕ TẠO CHUYỂN ĐỘNG (PHÍM, MÁY)
*Phím
(Key): Cấu tạo của phím có góc độ khác nhau đối với từng loại đàn được
ví như những đòn bẩy và chỉ có một điểm tựa ở mmọt vị trí cố định duy
nhất cho phím chuyển động lên xuống .Phía ngoài của bàn phím được gán
thêm bởi một mặt nhựa hoặc là ngà của động vật.Hai loại phím này có đặc
điêm nhận dạng khác nhau .Phím nhựa thì trắng bóng nhưng dễ bị trầy xước
trong quá trình sử dụng, còn phím ngà thì vàng dễ chuyển mầu nhưng sẽ
không bị xước.Phía đầu nhấn phím sẽ được gắn thêm một miếng trì tạo đọ
cân bằng cho phím (lưu ý : Bàn phím được làm từ một tấm gỗ, sau đó cắt
chia góc độ vì vậy mỗi một loại đàn khác nhau về model có một góc độ
khác nhau không thay thế.
*Máy(Action) Là
một tổ hợp lien kết giữa các chi tiết với nhau .Các khớp chuyển động
được thiết kế rất tinh vi sử dụng nguyên liệu chủ yếu là gỗ và dạ và rất
nhạy cảm với độ ẩm.Với lý do này qua nghiên cứu cho thấy đàn piano chỉ
cho phép độ ẩm ở mức 50~70%
4) BỘ PHẬN PEDAL TẠO ÂM SẮC (phần pedal vang, phần pedal luyến ,phần pedal giảm âm thanh)
*Pedal
vang: Sau khi nhấn phần TEMPO sẽ tách ra khỏi phần dây tạo cho dây có
độ dung động lớn mà không bị chặn độ dung động của dây.
*Pedal
luyến : được liên kết với phần máy có tác dụng làm giảm khoảng cách
giữa dây và đầu hammer ,Bình thường khoảng cách giữa dây và búa là
47.5mm nhưng đã giảm đi 1/3
*Pedal
giảm thanh: Được che chắn khi đầu búa gõ vào dây đàn bởi một miếng dạ
.Giúp cho âm thanh không vang lên khi chơi đàn ban đêm.
5) Vỏ (Body)
* Vỏ
bằng gỗ tự nhiên qua xử lý: Thường thấy ở những cây đàn màu nâu, màu gỗ
tự nhiên: thường có vân gỗ tự nhiên rất đẹp, bề mặt lỳ không bóng
(những model mới) hoặc bóng (model cũ). Loại này dùng sơn 2K (Mahogany
Polished) bề mặt sơn dầy đến hơn 1mm.
* Vỏ ngoài bằng sơn PU polished bóng: Thường thấy ở nhưng cây đàn mầu đen, mầu trắng...
No comments:
Post a Comment